Monday, March 3, 2014

Bạn Cũ



Vài dấu lặng giữa cuộc đời sôi động
Một dành cho bè bạn chốn quê nghèo
"Xưa ta bé ta chơi..." bài hát cũ
Dắt ta về những ngày tháng trong veo.

Giờ thì đã mỗi người về một bến
Đứa bấp bênh, kẻ neo chặt chán chường
Gặp nhau nhắc chuyện xưa cười bỡ ngỡ
Chút vụng về sót lại thấy mà thương !

Thôi thì đã không còn là búp nõn
Cầu mong cho những hoa trái bình thường
Đừng giông bão dập vùi, đừng khuất mất
Chút xíu phần còn lại của thời thương...


Thu Nguyệt 

(Nguồn: Hội Quán Mọt Sách)




Sunday, February 16, 2014

Monday, February 10, 2014

Hoàng Quân - Xiêm Áo Thênh Thang

 
 
Hình: Sóng Nha Trang

Bốn chị em gái trong nhà: chị Thanh Tâm, chị Cẩm Thành hoa tay nữ công đầy mười ngón. Còn tôi và Ngọc Hiền thêu thùa may vá cũng thuộc hạng nhứt, nếu tính từ dưới lên. Qua đường kim mũi chỉ khéo léo của hai chị, chúng tôi đã có được những tác phẩm nghệ thuật vừa đẹp, vừa thắm tình yêu thương.


Có lần chị Thành học (lóm) may áo cổ cánh sen. Chị trổ tài may cho tụi tôi. Nhưng khi chị ráp cổ áo, hai phần không đều nhau. Có lẽ do "sư phụ" chỉ dạy chưa thấu đáo. Bởi vậy, khi mặc áo, tụi tôi phải lật hai cánh sen vào phía trong dấu đi. Có lần cô Yến, mẹ chị Yên tình cờ đứng gần Ngọc Hiền, thấy, cô bèn âu yếm móc cổ áo, lận ra ngoài và nói với Hiền: “Con gái ăn mặc, nhớ để ý nghe con. Cổ áo là phải lận ra ngoài.” Ngọc Hiền dạ dạ, nhưng chắc sau đó lại len lén cất kỹ hai cánh sen.

Thời kỳ chị Tâm học may trên nhà người chị của chị Ngọc Hiệp, chị về nhà thực tập may cho hai đứa em gái nhỏ, hai cái áo đầm có "li" to, màu xanh nhạt, vải popeline. Áo đầm dài quá gối. Vải dày, hơi cứng. Chắc là khi tụi tôi chạy nhảy, áo cũng kêu sột soạt như áo bà vú của Scarlett O'Hara trong Cuốn Theo Chiều Gió. 

Chị Thanh Tâm thuở đó đã rất tân tiến. Chị xem cuốn catalogue Sears, sưu tầm những mẫu áo đẹp, rồi tìm vải thích hợp. Sau đó chị dẫn tôi và Ngọc Hiền đi may áo ở nhà may Lyly. Kanh Kem lúc mới vài tháng tuổi, đã được diện áo chị Thanh Tâm may cho. Chị còn tỉ mỉ thêu rua hình mắt cáo ở trên ngực áo. Nhìn mấy cái áo xinh xắn cho hai thằng nhóc, tụi tôi cũng mê mẩn.

Khi vải tê -tô -rôn thịnh hành với các mẫu hình trái cây, tôi được một bộ đồ hình trái lê màu xanh, Ngọc Hiền hình trái táo màu đỏ.

Ở miền trung, vào mùa mưa thì áo mưa gần như là vật bất ly thân. Thuở ấy, loại áo mưa phổ biến là áo ny lông có nón liền, màu xanh nhạt, màu hồng, màu vàng với những đường chỉ vân ngang dọc mờ mờ. Thời trang hơn là các áo mưa nylon trong suốt, điểm những chấm tròn to, hoặc điểm hình vài trái táo đo đỏ, các hoa hippi, hàng nóng hổi từ Sài Gòn về. Các loại áo mưa phổ thông hay thời trang đều có cái "tật" là nách áo dễ bị rách. Có khi áo nhìn còn mới, mà nách áo rách, thì không chỉ Mưa rơi ướt phố phường, mưa trôi lá trong vườn, mà có mặc áo mưa thì cũng vẫn Mưa rơi trên vai chàng, Mưa rơi ướt vai nàng. Bởi thế Ba tôi nghiên cứu đâu đó, rồi nhờ người "thiết kế", may áo mưa loại không có tay, giống như áo "poncho" của mấy ông lính. Chỉ khác là áo gọn hơn và may bằng loại nylon màu sáng. Thời đó, tôi mới vào trung học. Vẫn còn thuộc tuổi nhi đồng và rất ngoan, nhưng chắc tôi không mấy hoan hỉ với thời trang áo poncho. Chị Cẩm Thành kể, chị và anh Lam cũng có tên trong danh sách đơn đặt hàng áo mưa của Ba. Cho nên, ngày ấy chị Cẩm Thành, anh Lam chắc rất sợ trời mưa. Sau đó, có lẽ chúng tôi cầu cứu Mạ nhiều lần, xin Mạ cho mua những cái áo mưa "bình dân"  để mấy chị em cùng chúng bạn lội mưa một cách "bình thường". Có thể áo quần ướt nhẹp vì áo mưa bị bung các đường nối, nhưng tụi tôi cảm thấy thoải mái vì giống các bạn, chứ không nổi bật với áo poncho "cải biên".

 Mỗi lần Mạ vô Sài Gòn để đặt hàng hóa cho nhà sách, là bầy con lại háo hức ngóng Mạ về. Có lần, Mạ làm quà cho tôi và Ngọc Hiền những quần "xì-líp", màu hồng, màu vàng, bằng vải "va-li-de", có ren ẻo lả. Đối với tụi tôi, đây là một "bước nhảy" thiệt cao trong trang phục áo đầm. Vì trước đó, hai chị em tôi chuyên trị quần banh- xô-lây (pantalon de soleil). Quần banh- xô-lây thường may bằng vải tê-tô-rôn có hoa li ti, giống quần đùi, hai ống quần có sợi thun luồn ngang. Đang từ quần phồng cổ điển, được chuyển qua “xì líp” hiện đại, hai chị em tôi lâng lâng, tưởng như nhân gian chung quanh trầm trồ chiêm ngưỡng. Lần nọ, Ngọc Hiền diện áo đầm trắng vải ca-tê mỏng, trong lại là "xì líp" có hình bông hoa xanh đỏ. Cho nên "nội y" lồ lộ, bị chị Nga em chọc quá trời. 

Năm tôi học lớp tám, Mạ mua cho tôi và Ngọc Hiền hai cái áo đầm, loại bằng "xoa tẹc gan", dưới là những nếp xếp, phía trên có nẹp ở giữa, thêu một hàng hoa dọc. Khi lên lớp chín tôi được mặc áo dài, nên áo đầm chỉ để mặc ở nhà. Cái đầm trắng đó tôi còn mặc cho đến lúc đã là sinh viên năm thứ ba ở Đại Học Sư Phạm. 

Cái áo dài đầu tiên Mạ cho tôi mặc là áo vải tê- tô- rôn sọc. Hồi đó, các chị tôi mặc những áo lụa hoa hồng, có mẫu hình bông hoa hoặc cành trúc dệt chìm, trông rất thướt tha yểu điệu. Mặc áo dài ở trung học thì phải mặc áo lót. Mạ sắm cho tụi tôi những cái áo lót có tay cụt, khác với áo lót đương thời chỉ có hai sợi bún (spaghetti strap). Cho nên tôi và Ngọc Hiền lén Mạ, " điều chỉnh " lại một chút. Chúng tôi lấy kéo cắt hai cánh tay, rồi khoét cho nách rộng ra. Chỉ vậy thôi, chứ chưa dám cắt thành hai sợi bún. Chúng tôi không biết dùng máy may, mà khâu tay cũng không lấy làm khéo lắm, nên nhìn kỹ áo lót trông rất bụi đời, vì lua tua, lủa tủa.

Gần nhà có chị thợ may dưới quê mới lên thị xã lập nghiệp. Mạ bèn ủng hộ, kêu chị may mấy bộ đồ cho mấy đứa con gái. Chị ấy may những áo tròng cổ, vải ca- rô nhuyễn trắng xanh đậm. Áo có cái hoa hồng vải, với nút bóp phía sau. Khi giặt, gỡ hoa ra, hồi nào đi chơi hay sắp sửa đi ra... tiệm Lệ Ảnh chụp hình thì gắn hoa vô.

Ba đi Sài Gòn về, ngoài những quà cáp khác, tôi còn nhớ bộ đồ bằng vải ca- tê ca-rô nhuyễn màu xanh chuối non, có chạy đường chỉ dọc cổ áo, lai tay, lai quần, và có những hột nút con bướm thắt bằng vải cùng màu. Bao năm qua, khi nhớ lại, tôi thấy bộ đồ đó vẫn đẹp tuyệt vời. Sau này, về Việt Nam, tôi nhờ Minh Hiếu dẫn đi mua vải và bỏ may mấy bộ đồ đẹp của ký ức tuổi thơ.

Nhà ở đường Quang Trung Quảng Ngãi có buồng thay áo quần. Đó là một căn phòng hẹp, dài. Một bên tường là loại gạch lỗ, thông qua phòng Ba Mạ. Dọc tường là những móc để treo áo quần. Cửa phòng là tấm màn rộng, màu xanh có hoa trắng. Trong buồng không có đèn, mà thường là ánh sáng xuyên qua các miếng gạch lỗ. 

Tết năm 1975, chị Thanh Tâm đem về từ Sài Gòn nhiều thời trang vô cùng hấp dẫn. Vào mồng hai, Ba chở cả nhà đi du xuân. Tôi vui sướng lâng lâng diện cái váy xếp ngắn màu trắng với ca- rô đỏ và cái áo thun đỏ tay lỡ, hiệu Vicky Valaire (không biết thương hiệu này có còn không). Tôi đứng hơi lâu trong buồng thay áo quần, ánh sáng mờ mờ, ngắm mình và hài lòng trong bộ vó mùa xuân. Khi tôi ra xe, Ba có vẻ không vui, vì bộ đồ quá thời trang của chị Tâm "diện" cho tôi. Ba hỏi sao không mặc áo dài. Sau đó, có lẽ không kịp giờ, nên tôi không phải thay áo khác và trên tấm hình gia đình tôi vẫn trong bộ váy rất "tây".

Sau 1975, nhiều người lo xa, tìm may áo quần bằng các loại vải tám, màu tối thui, cho hợp với chương trình tiến nhanh, tiến mạnh, tiến lật đật thành ...người nghèo. Nhưng Mạ không thích con gái Mạ mặc áo quần kiểu cày sâu cuốc bẩm. Mạ vẫn đưa thợ may cho tụi tôi những bộ đồ lụa màu tím nhạt, xanh nhạt, thiệt mượt mà.  

Chị Cẩm Thành có thời kỳ đi học thêu. Chị thêu những kiểu mẫu rất công phu, tỉ mỉ. Các áo sơ mi của chúng tôi lần lượt được tô son điểm phấn tùy theo chương trình chị Cẩm Thành đang học. Một trong những tác phẩm đầu tay của chị Cẩm Thành là hình cành cây với lá và hoa trái trên áo sơ mi trắng của tôi. Mấy hoa trái đó tôi thấy đẹp, dù nhìn không rõ hoa trái gì. Nhưng con bạn có đôi mắt bồ lạch lại nói, đó là trái cà... dái dê. Một thời, có chị Thành Lê, bạn chị Cẩm Thành, và Minh Hiếu, bạn của Ngọc Hiền, tá túc ở nhà chúng tôi để đi học may. Mùa giáng sinh, hai tay thợ may đã hì hục "sáng chế" cho tôi cái áo màu hồng, theo mẫu áo của Tuyết Nhung. Rồi dưới sự đạo diễn của chị Cẩm Thành, sau lưng áo của tôi là hình thêu trái chuông có thắt sợi nơ và hàng chữ lả lướt ở dưới Jingle bells, jingle bells jingle all the ways...Trên túi áo, dọc cổ áo thì thêu thêm vài ba chữ gì gì đó. Còn Ngọc Hiền được áo thêu với thuyền buồm và hàng chữ Bon Voyage.

Ánh, một người bạn của Minh Hiếu thỉnh thoảng nhận quà áo quần từ ngoại quốc. Lần nọ, Ánh cho tôi mượn cái áo sơ mi màu hồng, có vẽ hình con hồng hạc. Tôi vui sướng như đi trên mây khi mặc cái áo ấy, trong lần lên lớp tập giảng giờ Giáo Học Pháp, dạy văn phạm về thể present perfect. Phía dưới, các bạn trong lớp và thầy giáo đóng vai học trò. Tôi tưởng tượng mình như cô giáo trẻ, xinh xắn, dễ thương, thầy giáo cho nhiều điểm, chắc cũng một phần nhờ vào cái áo xinh đẹp bắt mắt.

Từ khi biết anh Hải nộp đơn xin đoàn tụ gia đình, tôi bắt đầu nghĩ đến việc học thêm vài nghề "vặt" để phòng thân nơi xứ người. Tôi theo khóa dạy cắt may bên trường sau nhà thờ Ba Chuông. Đây chắc cũng là một trong những quyết định táo bạo, liều lĩnh trong đời tôi. Bởi, hồi trung học, tôi thuộc top 5 các môn học trong lớp gần 50 học trò. Riêng môn nữ công, tôi quanh quẩn trong top 3 tính theo… bottom up. Có lần thêu khăn tay, học trò phải vắt khăn. Tức là phải dùng một sợi chỉ dài xỏ kim, vắt trọn chu vi của miếng vải. Tôi vắt gần xong cái khăn, không biết loay hoay thế nào mà cây kim bị gãy. Tôi quýnh quáng, sợ không làm không kịp để nộp bài. Tôi chạy hỏi cô giáo để tìm cách giải quyết "tai nạn". Cô giáo ngó cái khăn tôi làm lở dở, nhăn nhúm xấu xí, hỡi ơi. Cô lật qua lật lại, chắc ngán ngẩm hết tìm ra cách chữa, cô lẩm nhẩm: “Trời đất! Tay trâu hay sao mà làm gãy cả cây kim”. Sau này mỗi khi nghe câu hát Bàn tay năm ngón em vẫn kiêu sa... tôi tự nhiên nhìn xuống bàn tay mình và nhớ tới nhận xét của cô giáo năm xưa...Trở lại chuyện đi học may. Tôi theo lớp này với đầy đủ chương trình may cắt Âu, Việt phục. Học may áo sơ mi, quần tây, tôi còn học cả cắt áo dài, áo bà ba.... May sao, thuở ấy, cả nhà chắc đã nhìn thấy "tiềm năng" của tôi, nên không nghe ai đưa vải cho tôi may thử. Về sau, những "kỹ năng" còn giữ lại sau khóa học may, là tôi biết... lựa chỉ đúng màu để kết nút mà thôi.

Dì Tuyết Nhung bên Pháp về, mang theo cơ man là áo quần, thơm phức mùi Paris. Tuyết Nhung hay cho tôi "điệu" với thời trang của kinh đô ánh sáng. Lần nọ, Tuyết Nhung đưa cho tôi cái quần jeans, kiểu rất "ngầu". Vải quần là những mảnh vuông nhiều màu, chắp lại. Tôi chọn mặc với cái áo thun anh Hải mới gởi. Thời trang của Đức trông mát mắt, với sọc ngang trắng đỏ, có hình mấy con thú. Tôi hí hửng rủ mấy đứa bạn cùng anh phó nhòm Vượng vào sở thú làm dáng để chụp hình và để cho mấy ...con khỉ ngắm. Khi về nhà, Mạ bắt gặp, Mạ nói rất nhẹ nhàng: "Thôi, con đừng mặc cái quần ni nữa. Ngó không có duyên chi hết". Nghe lời Mạ, tôi giặt ủi cái quần thẳng thớm ngay ngắn, đạp xe lên quận 10, gởi quần lại cho Tuyết Nhung.

Trong hành trang "di dân" qua Đức, chị Cẩm Thành khuân theo bộ đồ nghề thêu, gồm có khung gỗ vuông, tròn và nhiều loại kim chỉ. Thời gian mới qua, chưa đi học, chị Cẩm Thành đã trổ tài thêu thùa rất đẹp. Người bạn của anh Hải, cô giáo Ulla, đem tặng chúng tôi nhiều áo quần, nhiều áo sơ mi nữ. Thế là chị Cẩm Thành tha hồ biểu diễn tài nghệ. Tôi còn nhớ cái sơ mi màu xanh da trời, chị Cẩm Thành thêu hình hai đứa bé mặc áo dài khăn đóng thiệt là ngộ nghĩnh. Tôi xin chị Cẩm Thành cái áo, để mặc "bắn y dô quởn", mà nghĩ hổng chừng bà chị phải tấm tắc: "Em tôi xinh xinh quá, bao giờ em... có bồ." 

Thời gian học trung học ở Wolfhagen, chị Cẩm Thành chuyển qua nghệ thuật đan áo. Chị chọn nhiều hình, mẫu rất đẹp mà cũng rất phức tạp. Mấy chị em gái đều được có những cái áo len tuyệt vời. Chị Thanh Tâm được áo len vàng với hình con hươu cao cổ. Tôi được áo màu xanh hình bươm bướm. Hiền được áo màu cánh sen với con voi. Chị Cẩm Thành kể ra thiệt nhiều hoa tay. Có thời kỳ chị Cẩm Thành mua các mẫu áo bằng giấy và mằn mò may áo vest. Chúng tôi rất khó tìm áo vest vừa vặn ở Đức. Thường thì chúng tôi phải mua áo trẻ con. Áo người lớn quá bự. Mua đã không hợp với túi tiền. Mà phải đem đi sửa, cắt ngắn chỗ này, xén bớt chỗ kia. Một hồi, cái áo không còn hình dáng của nó nữa. Nay có chị Cẩm Thành cắt may, tôi được cái áo vest bằng loại "lụa hoang" (wild silk) màu vỏ trứng. Lớp lót ở trong có hơi thiếu trật tự một chút. Nhưng bề ngoài vẫn là cái áo vest thanh lịch, tươi trẻ. Mặc chung với một cái mi ni duýp mầu đồng, tôi đã xuất hiện trong vài cái đám cưới với thiết kế thời trang chính hiệu hand made của chị Cẩm Thành.
       
Anh Hải gởi về cái quần nhung màu sữa, ống túm. Thời đầu thập niên 80, ở Việt Nam vẫn còn quần ống loa. Cho nên tôi phải mang ra tiệm, nhờ thợ lấy khúc vải dư của ống quần (quá dài) ghép lại, rồi mở rộng ống, thành quần loe cho hợp thời trang đương thời. Đến năm 1982, có giấy xuất cảnh đi Đức, cái quần này vẫn là cái quần đẹp nhất, xứng đáng ra ngoại quốc. Lúc đó, tôi lại phải nhờ người tháo mớ vải ngày trước đắp cho ống rộng, để cái quần trở thành ống túm. Tức là bây giờ, mèo lại hoàn mèo.

Trong thùng quà anh Hải có hai cái áo sơ mi cho con trai (số 152, tức là cho trẻ em khoảng 1m52), lúc đó vừa sít cho Thạch Duẩn. Tôi thấy hai cái áo rất hợp nhãn với mình. Cho nên, thỉnh thoảng, hai thằng cu vừa bỏ áo dơ ra thau, bà chị hăng hái đem giặt, ủi ngay. Rồi mượn tạm, mặc đi học, "giựt le" với bạn bè. Dẫu áo mặc ôm cứng như bó chả, ngắn cũn cỡn vừa lưng quần, tay áo chỉ mới lấp ló che cùi chỏ, nhưng tôi vẫn hân hoan diện "mốt" này. "Mùi" hàng ngoại vẫn thơm phức, dù giặt năm lần bảy lượt với xà phòng cục mùi dầu dừa.  Bước qua thế kỷ 21, khi nhìn các búp bê mẫu mặc áo sơ mi chưng bày trong cửa tiệm, trông cũng giông giống tôi của thế kỷ trước lúc còn ở Việt Nam. Tức là áo chật chật như bị thiếu vải, vạt vừa đụng lưng quần, tay thì lưng lửng. Như vậy, tôi đã đi trước thời trang tây phương hàng chục năm. 

Thỉnh thoảng chúng tôi nhận được một số áo sơ mi anh Hải đã dùng. Đối với chúng tôi, vẫn là những cái áo đẹp tuyệt vời và thơm lựng mùi....Tây Đức. Mấy chị em gái xí phần biến các áo nam thành áo nữ. Chúng tôi đem những áo sơ mi sọc nâu, xanh đậm ra tiệm cho người ta sửa. Thấy ở vạt áo có hình thêu hoa hồng đen, chúng tôi nhắc đi nhắc lại với thợ may, là sửa làm sao, mà cái hình hoa hồng vẫn còn trên áo mới được. Sau này qua Đức mới biết đó là logo của hiệu Seidensticker.

Sang Đức, lần đầu tiên được đưa đến phòng nhận áo quần, chúng tôi rộn ràng lựa các áo lạnh lông thú. Những ngày sau đó, mấy chị em chúng tôi tung tăng trong những chiếc áo lông mịn. Người Đức nhìn chúng tôi ngỡ là học trò trung học, nhưng lại xúng xính trong những chiếc áo cho các bà hiệu trưởng đã về hưu đang bước vào cổng ...thất thập cổ lai hi.

Thời gian chị Cẩm Thành và tôi đang là hai cô bé lọ lem ở Wolfhagen, chị Thanh Tâm và Ngọc Hiền đã "lùng sục" không biết bao nhiêu cửa hàng để tìm trang phục cho chị Cẩm Thành và tôi, theo tiêu chuẩn đẹp và vừa túi tiền. Khi nhận thùng quà, chị Cẩm Thành và tôi vui mừng tở mở. Chị Cẩm Thành được một cái váy sọc xanh nhạt, mặc với áo thun trắng. Tôi được một cái áo đầm màu xanh turkis, có sợi nịt trắng ở giữa. Hai chị em hí hửng mặc đi dự disco mỗi thứ năm trong trường. Cả hai đều mơ mòng trong ý nghĩ... la  plus belle pour aller danser A ha đêm nay ai cũng cho em là xinh nhất nơi trần gian..... Ở thêm vài năm, chúng tôi phát giác ra, mấy cái áo đó dành cho con nít khoảng ...phân nửa số tuổi của chúng tôi. Ồ, đâu sao! Mình thấy mình đẹp, mình thấy vui sướng trong bộ cánh đó là đủ rồi. Thời gian ở trường làng này, hai chị em còn mang vẻ hương đồng cỏ nội với mấy bộ đồ mua ở chợ trời Hamborn. Nên hôm anh Đạt đi chợ Coop, thấy có bày bán mấy cái áo thun (t-shirt), bèn mua tặng hai chị em mỗi người một cái áo màu xanh đầm đậm.

Học tiếng Đức ở Heilbronn, tiệm áo quần C& A là nơi chốn ưa thích "du ngoạn" của đám học trò chúng tôi. Nhất là những khi vừa lãnh học bổng, túi rủng rỉnh xu hào, chúng tôi dung dăng dung dẻ trong khu vực áo quần trẻ em không mệt mỏi. Có lần, tôi thấy một cái váy mấy tầng dài đến mắt cá, màu trắng, có viền đăng ten, chỗ nối các tầng có chạy đường ruy băng lụa màu hồng trông rất sang (ít ra trong mắt tôi lúc đó). Cái váy đại hạ giá. Nhìn thấy giá cũ, mình mua được rẻ, tức là lời to, tôi hớn hở ôm váy đến quày trả tiền. Tôi mua, nhưng còn lờ mờ về "chức năng" của cái váy. Nếu chỉ mặc như vậy thì "xếch xi" quá, tại vải mỏng tanh. Nhưng nếu để mặc lót thì phí quá, ai còn thấy dây ruy băng hồng và đăng ten lả lướt. Vả lại, tôi đâu có cái váy nào để mặc ngoài cho “môn đăng hộ đối” với cái váy lót quý phái này. Năm bữa, nửa tháng lại đem váy ra săm soi, không biết mặc như thế nào. Sau thời gian nghiên cứu, tôi biết chắc đó là cái váy lót. Tiếc của, tôi xài như váy ngủ, được đôi lần rồi dẹp vào xó tủ. Mặc ngủ, đẹp chẳng ai thấy, vì tắt đèn tối thui, mà váy lụng thụng, lột xột, loạt xoạt, chỉ tổ không thoải mái. 

Lần khác, tôi mua cái áo len loại hơi dài, che mông, bán kèm hai cái ống len. Tôi suy diễn theo hiểu biết của mình, dùng ống len như ống quần. Thế là tôi mặc áo len, thay vì mặc quần, tôi choàng hai cái ống đó kéo lên che bắp đùi, phía dưới thì "chơi" đôi giày ống cao đến đầu gối. Diện xong thời trang thế kỷ, tôi ỏn ẻn đứng ngồi và nhờ người chụp hình. Bà chị dâu tôi thấy tấm hình đó, cố nén tiếng cười, nói sơ sơ rằng: “Cô Thúy mặc bộ đồ ni coi ngầu ghê nghe. Có điều hấp dẫn quá đó!”. Cũng may, tôi chỉ mới biểu diễn thời trang trong phòng, chứ chưa ra đường, vì lúc đó trời lạnh quá. Chớ không thôi, chắc đã có nhiều tai nạn giao thông trầm trọng, vì các tài xế bận cười mà quên cả lái xe. Về sau, tôi mới phát giác ra rằng, ô ồ, cái cặp ống len ni chỉ là leg warmers, để mang choàng từ cổ giày lên bắp chuối mà thôi, còn quần thì vẫn phải mặc chứ lỵ. Tiếc quá, không có nhà kiểu mẫu thời trang nào khám phá ra đầu óc sáng tạo của tôi để đưa vào...Haute Couture.

Bây giờ, tuổi đã nhiều, cuộc sống đã ổn định. Tôi có thể tìm cho mình những bộ áo quần vừa ý, hợp thời, may cắt khéo léo. Tôi có điều kiện tìm hiểu trang phục thích hợp. Nhưng đâu đó trong trí, tôi vẫn luôn nhớ đến những kỷ niệm xưa. Những áo quần ngày xưa có thể không hoàn hảo, nhưng đầy ắp tình cảm của gia đình, bạn bè. Những "trục trặc kỹ thuật" tuy vụng về, ngô nghê, nhưng là ký ức dễ thương, ít nhiều đã góp phần tô điểm thêm cho dòng đời muôn màu, muôn vẻ của tôi.

Hoàng Quân
Tháng Giêng 2014
(Nguồn: Diễn Đàn Thế Kỷ)

 

Nỗi ân hận muộn màng



Anh Hai là con trai duy nhất mà 30 tuổi vẫn độc thân nên ba má tôi sốt ruột lắm. Hồi đó, tới tuổi băm mà “chưa có gì” thì thế nào cũng xảy ra nhiều suy diễn kiểu như “chắc thằng đó kỹ tính quá”. Đàn ông con trai mà bị mang tiếng kỹ tính thì coi như… hết cứu.
 

Chị em tôi lần lượt “bấm còi” vượt mặt, anh Hai vẫn giậm chân tại chỗ, mặc kệ má tôi bồng bế cháu ngoại, nói gần nói xa, rồi hỏi thẳng: “Tới chừng nào con mới chịu cho má bế cháu nội?”. Anh Hai cười hì hì trốn sự thúc giục của má bằng cách xách cưa và búa lên chùa.

Ba má tôi là Phật tử, từ khi còn nhỏ, anh chị em tôi đã được ba má dắt tới chùa lễ Phật và tập làm công quả như quét sân, kết hoa vải, dọn dẹp trong những ngày lễ lớn… Nhà chùa đang chuẩn bị mở lớp học cho các em nhỏ lang thang. Bàn ghế thu gom từ các nơi cần được sửa chữa và anh Hai đảm nhận phần việc này.

Trong số các giáo viên tình nguyện đến dạy các em, có một cô dạy toán là người theo đạo Công giáo. Chuyện bắt đầu từ đây. Anh Hai tôi thường xuyên lên chùa nhưng không chỉ để làm công quả mà còn để đưa đón cô dạy toán.

Ba má tôi cắn răng thở dài, ông bà mong biết mấy được thấy con trai có đôi có cặp, nhưng khi có rồi thì vui không nổi. Con trai đầu có bổn phận cúng kính mà lấy vợ khác đạo thì làm sao?
 
hôn nhân, ân hận, tôn giáo

Anh Hai biết tình yêu của mình gây khó cho ba má, nên chẳng dám nói năng gì, cũng không dám đưa chị về chào gia đình. Tôi hỏi nhỏ: “Anh đã tới chào ba má chị chưa?”. Anh Hai lắc đầu. Tôi hiểu là nhà bên đó cũng chẳng đồng tình.

Hai gia đình biết rõ con mình thương ai, nhưng làm như không biết. Thời đó, chuyện yêu đương mà chưa có tiếng nói của người lớn thì coi như chuyện ngoài đường. Giả vờ như không biết, nhưng ba má tôi âm thầm theo dõi, thấy anh đưa chị đi lễ nhà thờ. Và nhà bên ấy cũng thầm theo dõi, thấy chị theo anh lên chùa lễ Phật ngày rằm. Hai bên cùng thấy, cùng biết và cùng nín lặng chờ đợi.

Chờ đợi gì cũng không rõ, có lẽ, không bên nào muốn là phía đầu tiên thốt lời khiến con mình đau khổ.

Mối tình của anh Hai kéo dài đến năm thứ ba thì má tôi không kiên nhẫn được nữa. Con mình là con trai, lỡ có bề gì thì mang tiếng ác với con gái người ta. Má ra tối hậu thư “hoặc tình, hoặc hiếu”. Anh Hai cúi đầu chọn bên hiếu.

Lựa chọn của anh Hai khiến má mềm lòng, nhưng thật ra, do âm thầm theo dõi, má đã sinh lòng mến thương người con gái hiền ngoan, vừa đẹp vừa nhân hậu, biết đến với trẻ em khốn khó. Được con dâu như vậy thì cũng đáng để má chịu lùi một bước. Má thuyết phục ba cho phép anh Hai ngỏ lời với nhà bên đó, với điều kiện đạo ai nấy giữ.

Ba má chị lắc đầu, với lời phân tích ngọn ngành rành mạch là phải từ chối người con trai nghề nghiệp đàng hoàng, tính tình tử tế, hiền lành thì cũng tiếc lắm, nhưng mai này sinh con ra thì làm sao? Đứa nào theo cha lên chùa, đứa nào theo mẹ đi nhà thờ? Ừ thì cho phép chúng tự chọn đức tin, nhưng khi mới sinh ra chưa biết gì thì cha mẹ là người dìu dắt, lúc đó làm lễ rửa tội thì sao? Đã nhận lễ rồi thì dĩ nhiên là con của Chúa, ông bà nội có chịu không?

Câu trả lời của ba má tôi là không, cháu nội nhất định phải theo đạo nhà mình.
 
hôn nhân, ân hận, tôn giáo

Vậy là anh chị chia tay. Để khỏi gặp gỡ, khỏi xao lòng, chị không đến chùa dạy lớp học tình thương nữa, người thay thế chị là anh Hai. Trước đó, anh chỉ làm những việc công quả cần sức vóc đàn ông, tới lúc ấy, anh nhận luôn việc dạy học. Bọn trẻ thắc mắc: “Sao cô không dạy tụi em nữa hả thầy?”, anh Hai trả lời: “Tại các em làm cô buồn”. Bọn nhóc chẳng hiểu câu trả lời này, thường ngày đứa nào cũng có nhiều lần nói chuyện trong lớp, không làm bài tập về nhà, rồi cãi nhau chí chóe… Cô giáo buồn là đúng rồi.

Anh Hai gầy sọm đi. Cả nhà tôi thở dài, bệnh buồn tình chỉ có thầy thuốc thời gian chữa lành mà thôi. Chữa lành thật không, tôi tự hỏi khi thấy anh Hai vẫn đi về một mình, vẫn cười cười nói nói nhưng ánh mắt chẳng còn sáng lên lấp lánh.

Tai nạn xe cộ bất ngờ cướp đi mạng sống của anh Hai.

Đám tang anh, chị lặng lẽ đến vào buổi tối, khi khách viếng đã ra về hết. Chị lặng lẽ chảy nước mắt trước di ảnh của anh. Nén nhang chị thắp cũng như người, lặng lẽ tỏa làn khói mỏng mà làm cay mắt tất cả. Ba tôi lau nước mắt quay mặt đi, còn má tôi ôm lấy chị mà nức nở. Quá muộn màng!

Sư thầy nói tục lệ đốt quần áo cho người chết đem theo là mê tín dị đoan, lãng phí, thay vì vậy, hãy đem làm từ thiện để làm phước. Tôi rủ chị xếp áo quần của anh để đem đi cho. Những ngón tay chị run run vuốt từng nếp vải như đây mới đúng là lần cuối cùng chị được chạm vào anh. Tôi chọn cái áo màu xám tro anh hay mặc, muốn nói chị hãy đem về giữ cho riêng mình, nhưng cái đầu tỉnh táo của tôi lại nghĩ, nỗi nhớ đã đủ làm khổ chị rồi, tốt nhất là để chị quên anh đi.

Tục lệ quê tôi là người vừa nằm xuống sẽ cảm thấy lạnh lẽo nên hàng ngày sẽ đốt củi sưởi ấm ngôi mộ. Sáng sớm, tôi chở má xuống nghĩa trang, ngang qua cổng, ông bảo vệ hỏi thay lời chào: “Con dâu của dì là cô giáo hả?”. Má tôi chảy nước mắt nhìn chị và bọn nhỏ lớp tình thương xúm xít mỗi đứa một khúc củi xếp lên nhau. Rồi những bàn tay nhỏ bé khum khum nối nhau che gió cho chị mồi lửa.

Tôi và má đứng lại ở xa xa nhìn tới, để cho chị được tự do chăm sóc anh. Má tôi vừa khóc vừa nói: “Biết vậy thì hồi đó má đã gật đầu. Chúa và Phật đều dạy người ta thiện tâm mà”.

Không ai biết trước được điều gì, nếu biết trước thì chẳng ai nỡ làm đau người khác. Tôi thường nói vậy để an ủi ba má và cũng là tự nói với mình. Tới tận ngày giỗ lần thứ bảy của anh Hai, sáng sớm mang hoa xuống mộ, tôi vẫn gặp chị bên cạnh đống lửa; lứa học trò ngày đó đã phiêu bạt khắp nơi, chị ngồi một mình…
 
UK
 
(Bài do Trương Văn Phát chuyển)
 
 
 

Sunday, February 2, 2014

Sunday, January 26, 2014

Viết cùng bạn bè




Tưởng như mới ngày nào nhưng thấm thoát mà đã gần 40 năm, ngày tôi và các bạn rời xa mái trường thân yêu, rời xa những kỷ niệm buồn vui với những hình ảnh thật thân thương của những ngày còn đi học. Thật sự xa lắm rồi trường lớp của ngày xưa, ngôi trường nằm lẻ loi trên đồi cao với cát vàng lúc nào cũng rực lên dưới nắng, và đặc biệt trường mình còn có cái cầu thang trước cổng cao thật cao, đứng từ trên có thể thấy cả một vùng thật xa phía dưới. Đồi cát thì thật dễ thương vì tôi vẫn cùng bạn bè chạy chơi đùa giỡn, nhưng cầu thang có nhiều bậc nên ngày hai bận đi về, leo lên leo xuống mỏi muốn rụng cả đôi chân. Không biết các bạn có còn nhớ hay không?

Riêng tôi, mãi đến tận bây giờ những kỷ niệm của một thời còn cắp sách có bạn bè thầy cô trường lớp, vẫn là những kỷ niệm ngọt ngào trân quí khó phai.

Nhớ mãi năm học cuối cùng, bạn bè chúng ta dù muốn nắm níu và nuối tiếc mấy cũng phải chia tay. Để rồi theo dòng đời đưa đẩy mỗi người đi mỗi ngả, chúng ta như những cánh chim non rời tổ, tản mác tứ phương bay mãi không ngừng. Đã bao năm vì bận bịu gia đình và lo toan cuộc sống, bây giờ chợt nhìn lại quãng đời thơ ngây hoa mộng cũ, ngôi trường xưa đã thực sự không còn nữa để quay về. Cho nên tôi hy vọng qua trang mạng nầy, như một nhịp cầu, chúng ta sẽ kết chặt lại tình bạn thân thiết ngày xưa, kể cho nhau nghe những chuyện buồn vui ngày còn đi học, để những kỷ niệm vàng son của một thời sẽ không theo thời gian mà rơi vào quên lãng.

Hôm nay tôi viết bài này cũng không ngoài mục đích đó, muốn kêu gọi các bạn đã từng có một thời chung trường chung lớp ngày xưa, dù bây giờ đang sống tại quê nhà, hay vì hoàn cảnh phải sống đời xa xứ, chúng ta mỗi người nên nhín chút thì giờ để góp một tay, cùng nhau tô điểm cho trang nhà của trường thêm khởi sắc. Bạn ơi! so với các trường khác, trang nhà của trường mình có vẻ nghèo nàn èo ọt thấy mà thương! Tôi cũng như các bạn, chúng ta không phải là những người quen viết lách, nên viết những dòng chữ đầu tiên bao giờ cũng khó, không biết phải bắt đầu như thế nào; và dường như ai cũng vậy, chúng ta có thật nhiều điều muốn nói, muốn kể, nhưng viết ra cứ sợ không hay, viết hoài mà vẫn thấy không vừa ý. Tẩy tẩy xoá xoá một hồi rồi cuối cùng chỉ muốn... không thèm viết nữa. Thôi thì mong các bạn cứ hồn nhiên và vô tư như những ngày còn đi học, để muốn viết gì thì viết, giống như chúng ta đã từng có một thời viết "lưu bút ngày xanh". Ôi! những trang lưu bút ngày xanh của những ngày xa xưa, bây giờ với thời gian đã trở thành vô giá!

Bạn và tôi, chúng ta nên trải rộng lòng mình để cùng sống lại những ngày thật đẹp dưới mái trường Đinh Tiên Hoàng của những năm tháng cũ.

Đây là địa chỉ email của trang nhà: dinhtienhoang1969@gmail.com

Xuân về, chúc các bạn mọi sự tốt lành, vui vẻ và bình yên trong cuộc sống. Đồng thời cũng xin đừng quên viết một bài cho trang nhà, như một món quà tặng cho bạn bè để cùng nhớ về một thời áo trắng.


Thân ái,

 Lê Trung Sơn

Australia, 25/01/2014

(Cựu học sinh lớp 12D1. Hình trên, tôi là người đứng cuối cùng bên trái)





Friday, January 17, 2014

Những ngôi nhà của một đời người

 (Bài do một người bạn sưu tầm từ Diễn Đàn Thế Kỷ)

Có những lúc tôi hay lơ mơ nghĩ tới một điều không rõ rệt, một điều đưa mình tới một không gian ảo hay một thời gian đã mất hút. Khi nghĩ lơ mơ như thế, tôi không ý thức được rõ rệt mình vui hay buồn, hình như có một lằn ranh rất mơ hồ như sợi tơ nhện, nó chùng xuống cong theo võng gió vào lúc buồn buồn, rồi lại bật lên nằm ngang một đường thẳng tắp, khi thấy hân hoan. Lạ lắm! Nó cho một vị ngọt đắng trong miệng như khi tôi uống thuốc bắc.“Tiền cam, hậu khổ, hậu cam cam”, tôi nhớ lại câu nói đó ngày trước của ba tôi khi ông đưa cho tôi chén thuốc bắc, vừa dỗ tôi uống vừa cắt nghĩa: Bắt đầu là ngòn ngọt, kế tiếp là đăng đắng, cuối cùng là ngọt ngào. Quả thật, sau nhiều lần uống thuốc bắc tôi đã quen với ngọt đắng của thuốc, đến không còn cần ngụm nước phải uống vội vàng ngay sau ngụm thuốc nữa. Nếu thật sự lần nào lơ mơ suy nghĩ cũng được như thế thì quả là hạnh phúc lắm rồi, không dám ao ước gì thêm.





Cuối năm là lúc tôi hay lơ mơ nhất, Giáng Sinh qua, Tết dương lịch hết tôi đang lo dọn dẹp nhà cửa, mua sắm cho những ngày Tết âm lịch sắp tới, tôi  vừa làm việc, vừa  để hồn lơ mơ vào một điều gì đó không rõ rệt, người Mỹ gọi những người như tôi là “Day dreamer”. 

Dọn nhà, lau bụi bàn thờ, mang ảnh cha mẹ bày ra, lo hoa, lo nến đầy đủ, bất giác tôi nhớ đến chữ “Nhà”, tự hỏi: Không biết một đời người, ta đi qua bao nhiêu thành phố, ta sống trong bao nhiêu ngôi nhà nhỉ?

Người Mỹ có hai chữ nói về “Nhà” hay lắm. House (căn nhà) thì được xây bằng gạch, gỗ, xi măng. Home (mái ấm) thì chỉ cần tình thương và hiện diện bên nhau.

Có thể ta đang sống trong một căn nhà (house) to lớn sang trọng nhưng ta cô đơn và không có tình thương yêu thì căn nhà đó chẳng bao giờ được gọi là home, là mái ấm cả. Chữ Home đôi khi còn dùng cho quê hương, tổ quốc nữa: “Homeland” một chữ vừa gợi hình vừa đầy tình tự dân tộc. Nhớ nhà (homesick) là nhớ cái tổ ấm có những người thân yêu sống trong đó, chứ không nhớ cái nhà vô tri vô giác bằng gạch.

Người Việt mình chỉ dùng một chữ “Nhà” thôi nhưng trong câu nói thì rất rõ rệt.

Khi nói: “Tôi đang xây nhà.” Người nghe hình dung ngay trong đầu hình ảnh một ngôi nhà với gạch, ngói, xi măng, gỗ, sắt đang được hoàn thành.

Nhưng khi nghe: “Cuối năm rồi, nhớ nhà quá!” Thì biết ngay là người đó đang xa gia đình hay xa quê hương. Chữ nhà đó cho ta hình ảnh một mái ấm, có những người thân yêu trong đó hay cho ta niềm cảm thông ngay lập tức với một kẻ xa quê hương xứ sở.

Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Trông lại tha hồ mây trắng bay (NB)

Cuối năm tôi đang “Homesick”. Tôi đang nhớ nhà, nhớ nước, là nơi tôi đã xa gần bốn mươi năm. Tôi lơ mơ nhớ lại những căn nhà tôi đã đi qua: Căn nhà đầu tiên nhỏ lắm, nhưng rất ấm áp và đầy đủ. Nơi đó tôi không phải lo lắng ấm lạnh, đói no. Tôi chỉ ăn và ngủ. Tất cả đã có mẹ tôi lo liệu, từ đi đứng, nằm ngồi. Mẹ ăn, tôi ăn, mẹ ngủ, tôi ngủ, mẹ đi, tôi đi, mẹ cười, tôi vui, mẹ khóc, tôi buồn… Thật đáng tiếc, tôi không thể ở lâu được trong ngôi nhà này, tôi chỉ cư ngụ ở đó một thời gian ngắn, chín tháng. Tôi phải dọn ra, để còn nhường chỗ cho em tôi dọn vào sau này. Căn nhà đó chính là cái dạ con của mẹ tôi, nơi trú ngụ an toàn nhất của đời mình.

Sau này khi tôi di tản từ Việt Nam sang Mỹ, tôi liên tưởng cái dạ con của mẹ cưu mang tôi có một phần nào giống như trại tỵ nạn Camp Pendleton, tôi tới đó chờ chuyển tiếp vào một đời sống mới ở Mỹ, một nơi chốn xa lạ. Bụng mẹ cũng là nơi đón nhận tôi từ tinh cầu mơ hồ nào rơi xuống, lo cho tôi đầy đủ trước khi tôi bước vào những căn nhà lạ hoắc khác nhau của đời sống con người trên mặt đất. Khác chăng mẹ không bỏ tôi ngay sau khi tôi dọn ra, mẹ luôn đi theo bên cạnh tôi lo lắng, thương yêu, cho đến khi mẹ bắt buộc phải dọn một mình vào căn nhà cuối cùng của mẹ.

Khi tôi vừa đủ trí khôn để ý thức được sự dời đổi và tôi có thể nhớ đến ngày hôm nay, một phần qua trí nhớ mơ hồ, một phần qua lời kể của cha mẹ hay anh chị lớn hơn, thì bắt đầu một cuộc hành trình dời đổi.

Từ Hà Nội cha mẹ tôi mang các con chạy loạn về quê ngoại, làng Thanh Nga tỉnh Thái Bình. Tôi nhớ được gánh trong hai cái thúng, chị tôi một đầu, tôi một đầu. Ở Thái Bình một thời gian, chúng tôi được xem tát ao, xem bắt cá, xem giã gạo, đập thóc, được câu cá và chơi với trẻ em nhà quê thò lò mũi xanh. Cha tôi hay ra đình dạy học và dạy võ cho người làng.

Rồi từ Thái Bình, lại chạy sang quê nội ở Nam Định, chúng tôi cũng qua hai ngôi nhà của họ hàng ở đây. Mấy tháng sau, từ Nam Định hồi cư về Hà Nội, ở Hà Nội được hai năm qua ba căn nhà, cha tôi là công chức bị thuyên chuyển xuống Hải Phòng, ở Hải Phòng bốn năm tiếp theo là cuộc di cư từ Bắc vào Nam. 

Tôi ngồi lơ mơ nhớ lại, đếm trong đầu: từ lúc tôi ở trong ngôi nhà đầu tiên là bụng mẹ, cho đến lúc di cư vào Nam 1954, chưa được 9 tuổi, tôi đã ở qua chín ngôi nhà.

Năm 1954 tôi đã khá lớn, có thể tự nhớ những căn nhà mình đã dọn vào, dọn ra không cần nghe ai kể lại. Vào Sài Gòn bắt đầu tạm trú ngay trong sở Địa Chánh, nơi cha tôi làm việc ở đường Hai Bà Trưng, con đường ngay sau Bưu Điện Sài Gòn. Tôi đi học ở trường Hòa Bình thuộc nhà thờ Đức Bà. Được ít tháng, mẹ tôi thuê được nhà ở bên Thị Nghè. Gia đình tạm coi như yên ổn được vài năm. Chúng tôi ở Thị Nghè từ đó cho đến năm 1975. Nhưng trong thời gian dài đó gia đình tôi cũng mua, bán, thay đổi nhà thêm ba lần nữa, dù vẫn chỉ loanh quanh ở gần nhà thờ Thị Nghè.

Tôi sang Mỹ với cha mẹ già, từ Camp Pendleton, California, chúng tôi đi qua nhà người bảo trợ ở thành phố Encino; một tháng sau, tôi có việc làm dọn ra căn chung cư ở Los Angeles; lập gia đình, dọn nhà hai lần nữa; sanh đứa con đầu lòng, dọn sang nhà mới, mua ở Rosemead; rồi đổi nhà khác về Westcovina. Ở California được 13 năm, qua 7 căn nhà khác nhau. Chúng tôi lại dọn lên vùng tây bắc nước Mỹ, bang Washington cho gần quê nội bên chồng ở Montana, để mỗi mùa hè có thể lái xe mười tiếng mang các con về thăm nội. May quá, ở Seattle từ mùa hè 1988 đến hôm nay, chúng tôi chỉ đổi nhà một lần. Từ thành phố Issaquah sang Bellevue cách nhau có hai exit ở xa lộ.

Từ lúc rời căn nhà đầu tiên là bụng mẹ đi ra, ngẫm lại thì tôi đã ở không biết bao nhiêu ngôi nhà, tôi không muốn đếm nữa.Tôi đi suốt từ miền Bắc đến miền Nam nước Việt, từ quê hương Việt Nam tới nước Hoa Kỳ. Nghĩ lại mà bàng hoàng. Sao mà dời đổi nhiều thế, sao đi xa thế nhỉ?

Những ngôi nhà tôi ở dài thời gian hay ngắn cũng đã cho tôi bao nhiêu là kỷ niệm. Ký ức đôi khi lấp lánh như được rắc bằng kim nhũ, đôi khi long lanh như nước mắt. Những mái nhà từ quê đến tỉnh, từ nước Việt sang nước Mỹ. Khi thì mái lá, khi mái lợp tôn, khi mái lợp ngói, khi mái gỗ, đã cho tôi nghe bao tiếng mưa rơi mang âm điệu khác nhau và sự ấm lạnh khác nhau của cả bốn mùa.

Dưới những mái nhà đó, bao nhiêu kỷ niệm từ thời thơ dại, thuở bắt bướm, hái hoa. Có gặp gỡ, có hẹn hò. Có đêm nhìn hỏa châu, có ngày nghe pháo kích. Khi trưởng thành biết yêu, biết nhớ, biết đau khổ và biết hạnh phúc phải trả bằng giá nào mới có. Mỗi lần dọn nhà, trước khi giao nhà cho người khác, quay lại nhìn căn nhà trống, nghĩ mình đã một thời sống dưới mái nhà này, cười, khóc trong những bức tường này. Gian bếp, buồng ngủ, mảnh vườn, mỗi nơi mang theo biết bao là dấu vết của đời sống gia đình. Có căn nhà mình sống với cha mẹ ở đó, có căn là nơi mình đón những đứa con ra đời, có căn là nơi mình khóc tiễn đưa mẹ cha lần cuối. Khi dọn đi làm sao xóa được dấu tích thân yêu, tránh khỏi một chút ngậm ngùi.

Cứ mỗi lần dọn vào một nơi ở mới, dù là nhà thuê hay nhà mua, tôi thường mời linh mục đến làm phép nhà. Cầu xin cho gia đình mình bình an, cầu xin cho những người đã ở trong nhà đó trước khi chúng tôi dọn tới và cầu xin cả cho những người sẽ dọn vào sau chúng tôi:“Nhất điền thiên vạn chủ.” Làm sao tôi biết được đời sống nào, những con người sống trong căn nhà này trước tôi đã kinh qua và người đến ở đây, sau chúng tôi sẽ phải đối diện những gì.

Những căn nhà khác chi những toa tàu trong đời sống, mỗi sân ga ta xuống, mỗi toa tầu ta vịn leo lên, ta mang theo những gì, bỏ lại những gì? Hạnh phúc, đau khổ, tiếng cười, giọt lệ? Lên một toa tàu để xuống ở sân ga khác, nào ai biết được điều gì xảy ra trong chọn lựa ấy? Ta đã gặp và đã chia tay biết bao nhiêu người ở những trạm lên, xuống đó. Và người đồng hành với ta nữa. Có người gắn bó theo ta suốt cả một đời, cùng dọn ra, dọn vào trong những ngôi nhà ấm, lạnh đó. Có người ngó trước, trông sau, bỗng bâng khuâng thốt lên: “Lần này ta dọn vào đây chỉ có một mình à?”

Ôi! Những kẻ tôi chỉ chào một bận,

Chân xa mau, lòng chưa kịp giao thân,

Trên đường tôi nếu trở lại vài lần,

Chắc ta đã yêu nhau rồi, - hẳn chứ...(Tình Nhớ-Huy Cận)


Rồi còn những người được coi là vô gia cư (homeless). Có bao giờ họ mơ ước có một mái ấm đủ vợ chồng con cái quây quần bên lò sưởi trong một tối mùa đông. Một thời nào đó, những người homeless này chắc cũng đã từng được hưởng hạnh phúc mái ấm gia đình.

Căn nhà cuối cùng của mỗi người nữa. Hình như ai đó đang xây những lăng tẩm không kém gì vua chúa thời xa xưa, để dọn bộ xương của mình vào. Nhưng lại có những người từ chối cả một nấm mồ. Họ muốn rắc tro than mình lên núi hay thả vào lòng biển. Họ chọn ngôi nhà cuối cùng không có mái, không có bốn vách tường, để linh hồn được tự do tan biến vào thiên nhiên.

Nhưng ai biết được ngôi nhà cuối cùng của mình đã sở hữu trước có bảo đảm là mình được dọn vào hay không? Thiên tai có thể quét sạch, san bằng lăng tẩm đã xây. Chiến tranh có thể đẩy ta sang sinh sống ở một phần đất của quốc gia khác.

Thôi thì hãy đặt đời ta sống, chết, trong võng gió của Thượng Đế.

Một người lính thi sĩ đã viết xuống một bài thơ về những ngôi nhà và chiến tranh như sau.

Ở những ngôi nhà này
không còn gì cả
ngoài những mảnh vụn ký ức
Những người đã từng trò chuyện với tôi
không một ai sót lại
Nhưng trong trái tim tôi
Không một thánh giá của ai rơi mất
Trái tim tôi
một trú xứ thống khổ tràn đầy. (*)

Trần Mộng Tú
Tháng 12/2013

(*) Thơ-Giuseppe Ungaretti (1888-1970)